Câu chuyện này được trích trong quyển “100 Great Adventures” do Nhà Quê dịch, Phạm Trọng Đài sưu tầm và giới thiệu.
Máu đã đổ trên những bãi cỏ, máu vung vãi như có ai đó vãi tung nó ra trên đất. Ông nhìn chăm chú hơn: thì ra đó là một mảnh vải thấm đầy máu. Ông nhìn kỹ lại một lần nữa và nhận ra đó là mảnh váy nát nhàu của một phụ nữ “Thưa cha, đừng đến đó, thật là đáng sợ. Chỉ có người điên mới đến đó thôi”
Thay vì trả lời, Francis làm dấu thánh giá rồi bước lên phía trước. Từ trong đám đông thị dân, có tiếng một người phụ nữ đứng ngay sau ông kêu lên:”Vì Chúa – nhân danh Chúa Cha, xin đừng đến !”
Đám đông bắt đầu bắt đầu rút lui vào phía sau bức tường thành phố. Họ đã đến đây chỉ nhờ vào sự can đảm của con người trẻ tuổi này. Chính vì ông đã từng nói ông có thể “thuần hóa loài sói” không cho chúng bắt gia súc của vùng Gubbio mà còn ngăn không cho chúng làm hại những công dân tốt lành của thành phố, nên họ cố giữ can đảm cùng đi với ông đến nơi nguy hiểm để hoàn tất chiến công này, Nhưng đến đây, họ nhìn thấy gần ngay chỗ con sói nắm là vết tích của một sinh vật mới bị chó sói ăn thịt. Theo như người ta kể lại là vào lúc chạng vạng tối hôm trước, một cô gái dại dột đi ra khỏi nhà, để đến với người yêu. Chỉ ít phút sau, người ta nghe thấy những tiếng kêu thất thanh của cô gái. Kể từ lúc đó cho đến sáng hôm nay chẳng ai có can đảm bước ra khỏi nhà để tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra. Điều tệ hại này đã xảy ra ở Gubbio cách nay đã một tháng. Trước tiên một con cừu và một con bò tự nhiên biến mất. Sau đó khi tìm thấy những dấu hiệu hoạt động của chó sói, người dân ở đây tỏ ra tức giận nhưng rồi họ cũng phải cam chịu nói với nhau : Chó sói ở đâu mà chẳng vậy, đến khi nó đi săn mồi ở chỗ khác thì tình hình lại yên tĩnh trở lại thôi. Thực ra họ đã lầm vì chó sói vẫn tiếp tục săn mồi ở đây
Tuy nhiên từ trước đến nay vẫn chưa có người nào bị tấn công. Có lẽ đã có một thỏa thuận ngầm giữa những con người hiền lành vùng Gubbio : Chó sói có thể thường xuyên đến, cuớp bóc đàn gia súc của họ – tất nhiên cướp bóc có giới hạn mà thôi – mà không ai ngăn cản chúng. Điều này có vẻ giống như một thỏa thuận ngầm. Tuy nhiên đến lúc này, mọi chuyện đã thay đổi. Người ta kể trường hợp ông cụ già là một ví dụ. Hôm đó ông cụ tách rời đàn gia súc xa hơn bình thường và bị chó sói ăn thịt. Bởi vì ông sống một mình trong một túp lều ở bên ngoài thành phố nên chẳng ai biết đến. Vài ngày sau đó, một con người can đảm khác, cũng có thể xem như một người dại dột được tìm thấy những phần thân xác còn lại. Đó là một vài mẩu thịt, xương và quần áo chứng tỏ cho thấy đó là trường hợp bị chó sói ăn thịt
Kể từ lúc đó ngôi làng tràn ngập trong nỗi sợ hãi. Chỉ một tuần sau, chó sói lại bắt thêm một người nữa. Lần này kẻ xấu số là một cậu bé : Rõ ràng chó sói đã quen ăn thịt người. Sau đó một nhóm người bất chợt nhìn thấy một con dã thú, khiến họ vùng bỏ chạy. Họ kể lại trong nỗi sợ hãi rằng đó là một con sói to gấp hai lần bình thường, con mắt sáng rực, miệng há to giơ hết cả hàm răng. Một người còn nói nanh của nó trông giống như những con dao. Trong số những người đang nghe câu chuyện này nói có cả Francis Bernardone, Ông chú tâm lắng nghe. Con người có tính khiêm tốn và lặng lẽ này đến từ thành phố Assisi. Ông chỉ nhẹ nhàng gật đầu khi nghe những người thị dân hầu hết bị kinh động kể lại khiến dân làng Gubbio càng thêm sợ hãi. Một người trong số họ là cha của đứa con trai bị sói bắt đã không cầm được nước mắt
Đúng lúc này Francis đứng lên nói với bọn họ : “Các anh hãy dẫn tôi tới chỗ con quái vật ấy”
Đáp lại lời ông chỉ là một sự yên lặng trong nỗi sợ hãi. Francis phải nhắc lại yêu cầu : “Nào chúng ta hãy đến, con quái vật đang ở đâu. Tôi sẽ đến để xem nó thế nào”. Nhưng họ đáp lại lời ông :“Đến xem nó ư thưa cha ? Nhưng mà nó sẽ xé xác cha ra”
Đó không phải là điều những công dân tốt lành này chờ đợi khi họ đến để xin một lời khuyên. Thực sự họ chỉ muốn sự an toàn và nếu là lời khuyên thì họ chờ được những lời khuyên như làm sao để bẫy được con vật hay ít ra tìm cách dọa để nó sợ mà bỏ đi. Vậy mà con người nhã nhặn và tốt bụng này, một tu sĩ, người đã từng dậy họ đi theo con đường của Chúa, nay lại muốn đi đến “xem một con chó sói hung tợn”. Họ thầm nghĩ có lẽ ông đã bị điên chăng. Thấy vẻ chần chừ của họ, ông lại lên tiếng thúc dục họ dẫn ông ra khỏi cổng thành đi đến chỗ con thú đang ẩn nấp, đi đến nơi mà nó vừa cắn người. Sau một lúc do dự rồi họ cũng dẫn ông đi theo, Thế rồi lúc này chỉ còn một mình ông đứng trơ trọi, phía sau cách vài mét là ba người can đảm nhất, còn đám đông khoảng năm mươi người thị dân chỉ dám đứng rất ra theo dõi trong nỗi sợ hãi. Ông bước tới chậm chậm cho đến khi không còn nghe thấy những tiếng kêu sợ hãi từ đám đông vọng đến. Lúc này mặt trời đã lên rất nhanh, lên đến ngang vai, chiếu bóng râm của những cây nhỏ in trên mặt đất đầy bất trắc. Và rồi ông bất ngờ đối diện với con dã thú Ông đứng lại và mặc dù là người có niềm tin vững vàng và can đảm, ông cũng không kìm được tiếng kêu và một cảm giác ớn lạnh biểu lộ trên khuôn mặt. Con chó sói ở cách ông khoảng chưa đến 10 m, nó đang bước ra khỏi cái hang đang ở. Ông nhận ra sự mô tả của người dân không phải là cường điệu. Đó là một con chó sói khổng lồ, giống như một con ngựa nhỏ, có đôi mắt mở rộng màu xanh, miệng để lộ những chiếc răng nanh gớm ghiếc. Ông làm dấu thành giá trong lúc con sói bắt đầu vươn vai, Để quan sát rõ hơn và để an tòan hơn, nhóm người cùng đi phía sau vội trèo lên một cái cây. Hình ảnh đầu tiên họ nhìn thấy là khi con chó sói vươn vai. Rồi sau đó họ thực sự kinh ngạc khi nhìn thấy, thay vì con chó sói nhảy một bước là nó đã có thể đứng trước người tu sĩ can đảm nhưng nó lại từ từ nằm xuống dưới chân ông giống như một con chó nhà
Lúc đó Francis mới nhẹ nhàng nói “Này anh bạn sói hãy đến đây”. Lập tức con chó sói đi đến, đầu cúi xuống nằm giữa hai chân trước. Francis tiếp tục động viên con sói : “Đến đây anh bạn sói. Nhân danh Đức Ky Tô, ta ra lệnh cho anh từ nay không được làm hại ta hoặc bất cứ một người nào khác”. Thật lạ lùng con chó sói lặng lẽ bước đến đưa một chân trước về phía Francis. Ông nhẹ nhàng nắm lấy chân con chó sói một lúc. Ông tiếp tục nói với nó nhẹ nhàng và chân thành như cách đã bao lần ông từng nói với giáo dân của ông : “Anh bạn sói, bạn đã gây nên nhiều đau khổ cho người dân vùng này. Bạn đã làm những điều ác. Thực ra bạn đã làm những điều này chỉ để giữ sự sống cho chính bạn Tuy nhiên bạn đã cả gan ăn thịt con người đã được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Vì những tội ác này bạn đáng phải treo cổ như những tên giết người xấu xa. Những con người lương thiện tại Gubbio này đang đòi chống lại bạn, họ đòi giết bạn cho thỏa cơn giận dữ”
Con chó sói sợ hãi nép dưới chân ông. Ông tiếp tục khuyên bảo nó :“Này anh bạn sói, ta muốn thực thiện một cam kết hòa bình giữa anh và người dân ở đây. Nếu anh bạn cam kết sẽ không gây thêm bất cứ một tội ác nào cho họ, họ sẽ tha thứ những tôi ác mà anh bạn đã làm trước đây. Con người và chó săn ở vùng này sẽ mãi mãi không săn đuổi bạn Con chó sói vẫn nằm im hiền lành. Francis biết rằng chó sói đã hiểu lời ông và nó đã chấp nhận những cam kết của ông. Ông nói thêm : “Anh bạn sói, ta muốn anh bạn chứng tỏ thiện chí của mình để ta có thể tin anh”. Khi Francis thân thiện đưa tay ra phía trước, con sói liền đứng dậy, đặt một bàn chân trước vào bàn tay ông. Francis nói với nó : “Ta cam kết với anh bạn từ nay trở đi chính người dân ở đây sẽ nuôi sống bạn đến suốt đời. Ta biết anh bạn đã gây nên tội chỉ vì bạn đói” Francis và anh bạn sói cùng đi với nhau vào thành Gubbio và khi vừa đến thành, những người thị dân không biết ẩn nấp từ đâu liền kéo đến với vẻ kinh ngạc và lo sợ vẫn còn vương trên mặt. Họ nhìn thấy hình ảnh một vị tu sĩ và một con chó sói to lớn bước qua cổng thành trông giống như một người đang dạo chơi với một con chó già trung thành
Lúc này đoàn người đã vây chung quanh họ – nhưng vẫn không dám đến gần – Francis công bố những cam kết cho mọi người biết : “Hãy nghe đây những người anh em và anh bạn sói”. Từ trong đám đông đã có tiếng xì xào : “Sao lại anh bạn sói ?”. Họ ngờ rằng vị tu sĩ đến từ thành Assisi đã trở nên điên loạn. Francis không quan tâm đến những lời bàn tán, ông tiếp tục : “Anh bạn chó sói đang đứng trước mặt chúng ta đây đã cam kết với tôi là sẽ chung sống hòa bình với mọi người miễn là về phần các bạn cung cấp thức ăn cho anh bạn sói. Anh bạn sói cần thức ăn hằng ngày và tôi đã cam kết rằng chúng ta sẽ cung cấp cho anh bạn này”. Họ ngạc nhiên vì cam kết này và sau một thoáng yên lặng họ chấp nhận điều cam kết, Việc cam kết này được thực hiện ngay hôm đó. Đây là một con chó sói già, có thân hình to lớn và sau đó nó đã sống thêm được hai năm nữa. Trong hai năm đó nó vẫn thường rong chơi đến các gia đình và người ta đã cho nó ăn uống tử tế. Một vài người còn mạnh dạn đến gần xoa vào đầu nó. Những con chó nhà cũng không sủa khi thấy bóng nó đi qua. Đến khi nó chết đi, thị dân tại đây lại lấy làm thương tiếc nó và chôn cất cẩn thận. Phải chăng đây là một câu chuyện có thật hay là một truyền thuyết ?
Người ta không biết đích xác, tuy nhiên tính xác thực của câu chuyện dựa vào hai sự kiện độc lập có thật. Trong một tài liệu, một tài liệu đáng tin cậy, đã ghi lại rằng vào thời đó thành Gubbio và cư dân lân cận đã bị những con chó sói hung hãn tấn công và Francis đã từng sống ở đây. Người ta đã tìm thấy xương sọ của một con chó sói rất lớn ở dưới chân tường nhà thờ thánh Francesco della Pace. Chắc chắn nó phải được chôn cất cẩn thận ở đây, Cuộc đời ngắn ngủi của thánh Francis được mô tả như là một cuộc phiêu lưu dài. Nhưng ông là ai ?. Tính cách của ông như thế nào ? Có thực như chuyện kể không ?
Cuộc đời của ông có nhiều điểm đáng kinh ngạc. Chúng ta được biết rằng ông là một người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết, sinh sống tại thành phố Assisi, miền Trung nước Ý. Cha ông, Pietro Bernadone, là một thương gia giàu có chuyên buôn bán vải, lụa. Vào thời điểm cuối thế kỷ 12 (Francis sinh năm 1182), chỉ có những con cái thuộc gia đình giàu có mới được hưởng một nền giáo duc đến nơi đến chốn, trừ khi anh ta muốn trở thành nột linh mục. Tuy nhiên Francis Bernardone không hề có ý hướng theo con đường của cha. Ông là một người ưa thử thách, thích náo nhiệt và đã từng là một người lính. Ông đã từng tham gia cuộc chiến tranh giữa thành Assisi, quê hương ông và thành Perugia lân cận và đã từng bị bắt làm tù binh một năm. Sau một năm khổ cực và thiếu thốn, ông được về nhà, trở thành một người ốm yếu và có khuynh hướng nội tâm một cách đặc biệt. Bạn bè thường chế diễu ông về sự thay đổi này nhưng ông thường giữ được thái độ hòa nhã, bình thản ít nhất là trên khuôn mặt. Thế rồi một kế hoạch quân sự được mở ra tại Sicily và ông gia nhập chiến dịch này
Chỉ vài ngày sau, người dân Assisi kinh ngạc khi nhìn thấy ông trở về, vứt áo giáp rồi vào làm việc tại nhà kho của cha mình. Ông đã nhận được một mệnh lệnh từ Thượng Đế và ông đang chờ đợi một mệnh lệnh tiếp theo. Thượng Đế không muốn ông trở thành một người lính nhưng sẽ phục vụ Ngài bằng một nhiệm vụ khác. Thông điệp tiếp theo đã được Thượng Đế gửi đến trong lúc ông cầu nguyện tại một ngôi nhà thờ nhỏ kính thánh Damien khi tượng Chúa chịu nạn đã phán với ông :”Francis, hãy ra đi, xây dựng nhà thờ của Ta vì nhà thờ đang rách nát !” Ông nhìn chung quanh và nhìn thấy một quang cảnh như sau : Ngôi nhà thờ nhỏ đang xuống cấp trầm trọng và cần phải sửa chữa ngay. Không một chút chậm trễ, con người trẻ tuổi mà cứng đầu này chạy vội về nhà, lấy đi tất cả những gì là tài sản của mình và thêm một số vải quí của người cha, đem ra bán tại ngôi chợ Folignio. Ở đây ông bán đi tất cả những gì ông mang theo kể cả con ngựa đã mang ông đến rồi vui mừng mang tất cả số tiền bán được về nộp cho cha xứ tại ngôi nhà thờ. Tuy nhiên vị linh mục biết rằng ông Pietro Bernardone sẽ không bao giờ đồng ý chuyện này nên nên cha đã không nhận số tiền trên. Thực tế là sau đó Francis không được thừa hưởng gia tài từ người cha nóng giận này . Tuy nhiên đây là một bước ngoặt trong cuộc đời của Francis. Ông quyết định phải kiếm được thật nhiều tiền bằng cách làm việc cật lực để sửa lại ngôi nhà thờ này. Ông từ bỏ mọi thứ mà đang có, chỉ giữ lại một cái áo choàng mà đức Gíam Mục đã tặng, lao đầu vào làm việc. Rồi ông tiếp tục sửa chữa ngôi nhà thờ thứ hai rồi nhà thờ thứ ba, nhà thờ đức mẹ Mary thành Portiuncula. Ngôi nhà thờ này về sau trở thành cái nôi của một hoạt động mới do ông khởi xướng dựa trên Bộ Luật của dòng Franciscan. Dần dần số người tham gia Hội Dòng càng ngày càng đông. Những anh em này tham gia không phải chỉ để sửa chữa những ngôi nhà thờ nhưng còn để cố gắng sống thật giống cuộc sống và giúp đỡ con người như đức Ky Tô của họ. Điều trước tiên những người gia nhập Hội Dòng phải tuân phục đó là phải sống khó nghèo tuyệt đối như ông xác định : vợ của người tham gia Hội Dòng là chính sự khó nghèo.
Bộ Luật đã được trình lên đức Giáo Hoàng Innocent III để được phê chuẩn, nhưng chưa được đức Giáo Hoàng chấp nhận vì cách sống qúa nghiêm ngặt khiến cho hoạt động của hội dòng không thể mở rộng. Tuy nhiên Ngài chấp nhận tạm thời và Bộ Luật sau đó được nới lỏng hơn. Chẳng bao lâu sau dòng nữ cũng được thiết lập tại nhà thờ thánh Damien là nơi Francis đã cho xây lại. Nó được giao lại cho nữ tu Chiara (Clare) Scifi, người cũng đã theo gương Francis từ bỏ mọi của cải trần tục. Sau đó Hội Dòng thứ ba được thành lập gọi là “Hội Dòng Ba” dành cho những người dân bình thường, những người từ bỏ hầu hết, chỉ giữ lại cho mình những thứ cần thiết tối thiểu cho sự sống, Francis đã đi truyền giáo ở rất nhiều nơi, hầu hết là những nơi xa xôi rất nguy hiểm, truyền bá lối sống và tư tưởng của ông không những ở lục địa châu Âu mà còn lan ra đến Trung Đông và tận Bắc Mỹ. Ánh mặt trời chói chang tại Bắc Phi đã tác hại nghiêm trọng đến con mắt khiến cho ông lúc cuối đời gần như bị mù. Ông thâm nhập vào triều đình Sultan của đất nước Ai Cập và tìm cách truyền đạo cho vua. Mặc dù con người ngoại đạo và tàn ác này đã từ chối chấp nhận đường lối Ky Tô Giáo, ông ta đã ngạc nhiên về sự can đảm hiếm có của một tu sỹ đã dám đến cung điện nên đã tha mạng cho ông
Lúc cuối đời, Francis đã trải qua một kinh nghiệm kỳ lạ nữa, đó là một cuộc “thám hiểm”. Ông đã nản lòng khi một vài người theo ông dường như không muốn hay không thể nào giữ các điều luật đã được qui định trong Bộ Luật nên ông đã cùng một vài người khác lên ngọn đồi La Verna để cầu nguyện, Vào một đêm, những người chăn gia súc đang ở cách xa hàng dặm bỗng ngạc nhiên khi thấy bầu trời sáng bừng lên ở hướng đồi La Verna. Một số người chở xe lừa đang ngủ trong những căn nhà nhỏ vội vàng bật dậy khỏi giường, thắng yên xe, chất đồ đạc lên lưng những con vật. Họ nghĩ rằng mặt trời đã lên cao cho đến khi họ nhìn thấy ánh lửa tắt dần và một thời gian sau, mặt trời như họ thấy thường ngày mới bắt đầu ló dạng ở phía chân trời cùng với sự hiển thị này là một điều còn lạ lùng hơn. Một thiên thần với sáu cánh bừng bừng chiếu sáng hiện ra; hai cánh mở rộng ra che trên đầu; hai cánh đang bay; còn hai cánh ôm lấy thân. Francis vô cùng kinh ngạc khi nhận đó là khuôn mặt đức Ky Tô. Thiên thần – mang thân mình đức Ky Tô – đáp xuống và trò chuyện cùng Francis một lúc lâu. Trong những năm sau đó Francis không bao giờ tiết lộ cuộc trò chuyện này trừ câu nói sau cùng của thiên thần :”Ta ban cho con năm dấu thánh, đó là những dấu vết khổ hình của ta để con trở thành người đi tiên phong cho ta”. Rồi trên bàn tay, bàn chân của Francis xuất hiện những dấu đinh; và trên ngực xuất hiện một vết thương. Những vết thương này, tức là năm dấu thánh vẫn hiện diện trên thân thể ông, trở thành thân thiết với ông và ông có thể minh chứng về chúng mặc dù thường khi ông tìm cách che dấu chúng đi. Ông mất năm 1226, được bốn mươi bốn tuổi. Hai năm sau, ông được đức Giáo Hoàng Gregory IX phong lên bậc hiển thánh./.
Số lượt truy cập: (310)